TƯ THẾ ĐÀN GUITAR CỔ ĐIỂN

(Trích Chương 1 – School of guitar – Abel Carlevaro)

Biên dịch: Nguyên Phương


A. TƯ THẾ

Vấn đề cơ bản mà người mới bắt đầu gặp phải luôn liên quan đến việc giữ thăng bằng của nhạc cụ trên cơ thể. Giữa người chơi đàn và cây đàn guitar phải tạo ra kết cấu liên hợp và sự hưng phấn (kích thích), nhằm không chỉ tránh tư thế vất vả mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ thuật chơi nhạc cụ. Giữ và ổn định cây đàn guitar mà không cản trở chuyển động của cơ thể và cánh tay trái phải là điểm khởi đầu để phát triển sự nghiệp guitar.

Cây đàn phải phù hợp với cơ thể, không phải cơ thể phù hợp với cây đàn. Nhạc cụ phải nằm yên và chắc chắn, đồng thời cho phép cơ thể di chuyển khi có yêu cầu của một số hoạt động của cánh tay hoặc bàn tay. Bằng cách này, các chuyển động có thể được thực hiện mà không ảnh hưởng đến sự cân bằng của nhạc cụ. Tính linh hoạt – và không có nghĩa là cứng nhắc – phải là đặc điểm nổi bật của vị trí của một người chơi đàn, chỉ có thể được cá nhân hóa sau khi anh ta (hoặc cô ta) đã tính đến các đặc điểm cơ địa riêng biệt của anh ta (hoặc cô ta).

Như một bước trước khởi đầu, cần chú ý kỹ đến vị trí của cơ thể và độ ổn định của nhạc cụ. Do đó, chúng ta nên:

a. không để quen thuộc ở vị trí ngăn cản hoạt động tự do (tư thế thoải mái và phù hợp với đặc điểm riêng của cơ thể), và

b. có thể thực hiện các chuyển động tự do và dễ dàng có thể đáp ứng các yêu cầu nghệ thuật của người biểu diễn.

Tư thế ngồi

Khi một người ngồi đặt cả hai chân về phía trước (chân trái đặt trên ghế kê chân), nỗ lực cần thiết để duy trì cơ thể ở trạng thái cân bằng sẽ bị dồn về phía sau hoàn toàn. Bây giờ, nếu trạng thái bắt buộc này đột nhiên được giải phóng khỏi sức căng của nó, cơ thể sẽ bị ngã bật về phía sau. Chúng ta sẽ định nghĩa tình huống này là Trạng thái cân bằng không ổn định, chỉ có thể đạt được khi thực hiện áp lực không ngừng.

Bước đầu tiên để tránh áp lực có thể gây hại, tất nhiên phải tìm kiếm cái được gọi là Cân bằng ổn định – một điều kiện cơ học, trong đó cơ thể có thể tự ổn định trên một bệ đỡ (ghế) và trung hòa như điểm giữ cân bằng của đòn gánh. Trạng thái trung hòa có thể đạt được bằng cách sử dụng bàn chân như các yếu tố vận động, một bàn chân đặt hướng về phía trước, bàn chân đặt ở phía sau. Hai yếu tố vận động này cung cấp sự cân bằng cơ thể và cho phép di chuyển: thăng bằng, bởi vì vị trí của bàn chân có thể xác định sự hiện diện hoặc không của trạng thái cân bằng ổn định cần thiết cho việc chơi đàn thoải mái; và tính di động, bởi vì cơ thể (thân người) sẽ có thể di chuyển về phía sau và phía trước như mong muốn, tùy thuộc vào áp lực tác dụng lên chân này hay chân kia. Hành động được chuyển thành một hành động tự nhiên như đi bộ.

Vì chân trái đặt trên ghế kê chân hướng về trước, nên chân phải nên đặt trên sàn nên lùi một chút về phía sau người biểu diễn, nhằm tạo cơ chế giữ thăng bằng để tác động lùi của chân trái có thể bị vô hiệu hóa *.

Nếu một người ngồi theo kiểu bình thường, tức là ở giữa ghế, thì chân ghế phía trước có thể cản trở chuyển động tự do của bàn chân phải hoặc chân phải. (Về mặt logic, điều này chỉ đề cập đến những chiếc ghế có bốn chân phổ biến chứ không đề cập đến những chiếc ghế đẩu một chân và các loại ghế đẩu biến thể khác). Do đó, người chơi guitar nên ngồi ở góc phải hướng về phía trước để không cản trở các chuyển động của chân và bàn chân phải.

Xem xét các thực tế trên, cần xác định rằng cả vị trí ngồi và cách đặt nhạc cụ phải tạo thành một “tổng thể” phù hợp cho cả nam và nữ. Không có ý nghĩa trong việc phân chia cách ngồi đàn chơi theo giới tính.

B. CÁCH GIỮ NHẠC CỤ

  1. Vị trí đặt và Cân bằng Guitar

Chỉ sau khi người chơi guitar đã xác định được vị trí dựa trên khái niệm Cân bằng ổn định thì anh ta mới chuẩn bị xem xét cách đặt nhạc cụ. Cây đàn guitar phải phù hợp với cơ thể người mà không làm thay đổi trạng thái cân bằng này và không ảnh hưởng đến quyền tự do di chuyển của người biểu diễn. Đồng thời, việc đặt nhạc cụ phải tuân thủ một loạt các điều kiện tiên quyết mà một màn trình diễn tốt quy định. Các tiêu chí được sử dụng để xác định cách đặt đàn guitar phải mang tính chất khái quát và khái niệm. Trong mọi điều kiện, chúng không nên được coi là một cách cứng nhắc mà phải là những yếu tố linh hoạt và có thể điều chỉnh được để thích ứng với đặc điểm thể chất của mỗi cá nhân.

Vị trí guitar không tốt có thể gây hại cho người chơi guitar và do đó ảnh hưởng đến âm nhạc của anh ta. Người biểu diễn sẽ phải chấp nhận một tình trạng thể chất khiếm khuyết không phù hợp với cơ thể của anh ta, và điều này rất có thể làm nghèo kỹ thuật và biểu hiện âm nhạc của anh ta.

Vị trí chính xác của thiết bị sẽ cho phép sự tự do di chuyển lớn nhất trong cả khoảng dưới và trên. Cánh tay trái hoàn toàn tự do và có thể cử động để hỗ trợ bàn tay và các ngón tay theo mọi cách. Lúc này, có thể nói rằng rằng hiệu quả của các ngón tay luôn phụ thuộc vào tư thế của cánh tay và không bao giờ là riêng lẻ. Mọi chuyển động bắt nguồn từ một số chuyển động khác và chỉ thông qua sự hiểu biết và kiểm soát đầy đủ về “phức hợp vận động” thì người ta mới có thể đạt được kết quả tốt nhất.

Cơ thể có thể di chuyển mà không bị cản trở, tiến về phía trước và về phía bên trái (như sẽ thấy), để đặt ngay cả khoảng cao nhất của cần đàn vẫn nằm trong tầm với của bàn tay. Vai phải không được ép về phía trước (Hình 1a) hoặc hướng lên (Hình 1b) để đặt cánh tay qua phần trên của cây đàn.

Do đó, nhạc cụ tựa vào chân trái nên có mặt nghiêng so với cơ thể, với mặt trên gần với ngực phải và cổ đàn hướng ra ngoài (Hình 2). Hai hình vẽ trong Hình 3 minh họa cách ngồi không đúng.

Các ngón tay của bàn tay phải phải đặt vuông góc với dây đàn, vì khi lướt dọc theo dây đàn rất có thể tạo ra tiếng ồn làm giảm âm nhạc. Để có được cú đánh vuông góc, cổ tay phải không cần phải cong quá mức; thay vào đó, ta nên tìm kiếm độ nghiêng lý tưởng của cây đàn, nâng cao và hạ thấp nó, xoay nó giữa cả hai chân, điều chỉnh nó cho đến khi các ngón tay có thể tạo ra cú đánh hiệu quả nhất một cách tự nhiên nhất có thể.

2. Tính ổn định

Những chuyển động không chủ ý và không lường trước của cây đàn guitar sẽ làm mất phương hướng của người biểu diễn và làm phân tán sự chú ý của anh ta. Do đó, nhạc cụ phải bất động ngay cả khi cơ thể di chuyển do yêu cầu kỹ thuật hoặc âm nhạc. Điều này không có nghĩa là cây đàn không bao giờ được di chuyển: có thể cần phải điều chỉnh vị trí của nó trong suốt quá trình biểu diễn, nhưng những chuyển động này luôn phải tự nguyện – có thể nói là sự gắn kết với người chơi guitar và nhạc cụ. Những chuyển động không mong muốn và bất ngờ phải tránh đi bằng mọi giá.

Sự ổn định có kiểm soát của guitar là kết quả của sự cân bằng cơ thể (tư thế ngồi đúng) một mặt và thiết lập các điểm tiếp xúc hợp lý với nhạc cụ.

3. Các điểm tiếp xúc

Cây đàn guitar có năm điểm tiếp xúc với cơ thể. Theo thứ tự quan trọng, chúng là: (a) chân trái, (b) chân phải, (c) cánh tay phải, (d) bàn tay trái, và (e) phần ngực bên phải (và không bao giờ là bên trái).

Bốn điểm đầu tiên là các điểm tiếp xúc trực tiếp và thông qua chúng, nhạc cụ có thể được giữ chắc chắn. Điểm tiếp xúc thứ năm là gián tiếp hoặc trung tính, tức là nó không tham gia vào việc giữ nhạc cụ. Tuy nhiên, chỉ cần ba điểm tiếp xúc hoạt động là cần thiết để duy trì và kiểm soát sự ổn định của cây đàn.

a. Chân trái

Điểm tiếp xúc này có các đặc điểm sau:

i) Yếu tố cơ bản trong cách giữ guitar.

ii) Điểm tiếp xúc chắc chắn nhất (tất cả các điểm còn lại đều có thể di chuyển được).

iii) Như một hệ quả, một điểm tham chiếu cho tất cả các chuyển động của cơ thể.

iv) Điểm tiếp xúc trung tâm và ổn định trước hết và liên quan đến tất cả các điểm tiếp xúc khác.

Với vị trí nghiêng, độ cong của mặt dưới của cây đàn có thể hơi khó xử lý khi cố gắng đưa nó vào chân trái. Vấn đề mất cân bằng có thể phát sinh, điều này có thể được khắc phục bằng cách sử dụng một tấm đệm (Hình 4) không chỉ giúp tạo hình dáng của cây đàn cho phù hợp với chân trái, mà còn ngăn không cho nhạc cụ bị trượt *.

(*) Mục tiêu đầu tiên có thể đạt được bằng cách làm tấm đệm từ xốp (bọt biển); thứ hai là sử dụng vật liệu chống trượt (ví dụ: cao su) cho mặt trên của tấm đệm (tức là phần sẽ chạm vào cây đàn).

b. Chân phải

Chỉ sau khi cây đàn đã được đặt ở chân trái thì điểm tiếp xúc ở chân phải mới được đưa vào. Điều này được thực hiện bằng cách để đùi phải tiếp xúc tự nhiên với bề mặt phẳng của mặt bên của cây đàn chứ không chỉ đơn thuần là chạm vào góc của nó (tức là nơi mặt sau tiếp xúc với mặt bên), và sẽ dẫn đến sự cân bằng hiệu quả và kiểm soát trong khi duy trì vị trí nghiêng.

c. Tay phải

Cánh tay phải đặt trên mặt trên của cây đàn guitar để trọng lượng của chính nó góp phần giữ thăng bằng cho cây đàn.

d. Tay trái

Có một số tình huống (sẽ nói ở phần sau) mà cánh tay phải được nâng lên – chính những trường hợp này, tay trái trở thành điểm tiếp xúc thiết yếu thứ ba với cây đàn guitar (cổ đàn).

e. Bên phải của Cơ thể

Cơ thể với tư cách là điểm tiếp xúc đóng một vai trò hoàn toàn trung lập và thụ động và không thuộc nhóm ba điểm tiếp xúc cần thiết để cân bằng nhạc cụ. Tuy nhiên, điều bắt buộc phải nhớ là sự tiếp xúc tự nhiên với cây đàn guitar luôn luôn chống lại bên phải và không bao giờ được chống lại bên trái của lồng ngực. Đặt phía bên trái của ngực vào cây đàn guitar phải được coi là khiếm khuyết vì nó có thể gây hại cho vai phải về sau này. Do đó, người ta nên tránh điều này ngay từ đầu.

Điểm tiếp xúc thứ năm (trung tính) được thiết lập khi bản thân người chơi guitar tiến liên phía trước trong tư thế biểu diễn, chứ không phải vì cây đàn được làm để dựa vào anh ta.

Các vấn đề quan trọng trong tư thế ôm đàn guitar có thể được tóm tắt như sau:

  1. Đặt cây đàn guitar lên chân trái (có đệm) tính đến vị trí nghiêng của chân so với thân đàn.
  2. Đồng thời, tách chân phải ra sau để không có gì cản trở nhạc cụ ngay từ đầu.
  3. Đưa chân phải tiếp xúc tốt với mặt bên của cây đàn theo cách đã mô tả ở trên.
  4. Đặt điểm tiếp xúc cần thiết, cánh tay phải, bằng cách đặt nó lên phía trên của cây đàn như trong Hình 5.

Dưới đây là liệt kê một số tình huống phổ biến hơn, nhưng không phải là loại trừ, không yêu cầu điểm tiếp xúc cố định cho cánh tay phải.

(1) Một số bồi âm được thực hiện bằng tay phải: điểm tiếp xúc được di chuyển hoặc toàn bộ cánh tay được giải phóng.

(2) Kỹ thuật Pizzicatos (thỉnh thoảng).

(3) Âm thanh bị tắt hoặc giảm âm (đặc biệt).

(4) Cường độ âm thanh yêu cầu chuyển động của cánh tay.

(5) Một số cú ép dây của ngón tay cái dọc theo sáu dây trong các hợp âm rải (có hoặc không có điểm tiếp xúc).

(6) Chuyển vị ngang đặc biệt của các ngón tay khác, từ dây thứ nhất sang dây thứ sáu hoặc ngược lại.

(7) Đôi khi ngón tay cái ép dây theo yêu cầu “fijación” (cố định).

(8) Màu sắc và hiệu ứng bộ gõ phi truyền thống được sử dụng trong âm nhạc đương đại.

C. CÁC CHUYỂN ĐỘNG CỦA CƠ THỂ (Không ảnh hưởng đến sự Cân bằng của Nhạc cụ)

Trong trường hợp khi thực hiện các kỹ thuật nhất định được đặt lên bàn tay trái và cánh tay trái, điều này đòi hỏi ta phải thực hiện các chuyển động cơ thể. Hầu hết các chuyển động này đều có nguồn gốc và được điều khiển bằng cả hai bàn chân như các phần tử vận ​​động. Sau đó, mỗi bàn chân là một đòn bẩy sử dụng mặt đất giống như một cái bệ để truyền một lực tác động trực tiếp lên các chuyển động của cơ thể. Bản thân cơ thể không cố gắng gì cả.

Khi cần chuyển động sang trái của cơ thể, chân phải bắt đầu hoạt động. (Chân này, tình cờ, nên di chuyển khá tự do). Chuyển động ngược lại của cơ thể được thực hiện bằng cách tạo áp lực nhẹ lên bàn chân trái đang đứng yên (trên ghế kê chân); bằng cách này, cơ thể có thể trở lại vị trí ban đầu.

Việc sử dụng cột sống làm yếu tố vận động duy nhất là phản tác dụng và do đó không được khuyến khích. Ngoài việc có hại, việc uốn cong cột sống về phía trước còn cản trở sự tự do cơ học.

Làm thế nào những chuyển động này, trong đó khi cơ thể và cây đàn đôi khi được tách rời, có thể được thực hiện trong khi luôn duy trì sự cân bằng của nhạc cụ? Nếu góc tạo bởi khuỷu tay phải không đổi và cứng, cây đàn guitar sẽ bị kéo theo cơ thể bất cứ khi nào cần đàn lùi về phía sau. Một khi khái niệm điều chỉnh sự ổn định của nhạc cụ được hiểu đầy đủ (nghĩa là, có ba điểm tiếp xúc cần thiết và đủ) và chức năng của cánh tay phải được hiểu (nghĩa là, trọng lượng của chính nó giữ cho cây đàn luôn ổn định), tất cả những gì còn lại là cho phép khuỷu tay phải thay đổi góc một cách thoải mái khi có nhu cầu và do đó chấp nhận các chuyển động của cơ thể. Bằng cách này, cây đàn có thể giữ nguyên vị trí mong muốn của nó, không bị ảnh hưởng bởi sự dịch chuyển, như đã thảo luận ở trên.

Chúng tôi khuyến nghị rằng các thao tác này được thực hiện riêng biệt cho đến khi đạt được mức độ khéo léo tương đối trong các chuyển động của cơ thể.

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*